Dân tộc Mường sinh sống chủ yếu ở vùng núi phía bắc (Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Thanh Hóa…). Nét văn hóa, phong tục, tập quán trong sinh hoạt cũng như lễ hội của người Mường đã trở thành nét văn hóa đậm đà bản sắc của núi rừng Tây Bắc. Lễ hội của người Mường rất phong phú, nó ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng của nền nông nghiệp lúa nước, vốn là nghề truyền thống của nước ta: Lễ hội Khuống mùa (Khai Hạ), lễ hội đình Vai, đình Cổi, lễ hội chùa Hang, chùa Kè, đình Xàm, lễ hội đền Bờ, lễ hội đền và miếu Trung Báo,….Lễ hội của dân tộc Mường thường là không gian của âm nhạc cồng chiêng, của những làn điệu dân ca Mường “ Rằng thường, Bọ mẹng”, của những điệu múa dân gian mộc mạc, trong lễ hội cũng thường có một số trò chơi dân gian: Ném còn, kéo co, nhún đu, đánh mảng, đánh cù, đẩy gậy… Cũng giống như các lễ hội của các dân tộc khác, lễ hội ở dân tộc Mường gồm hai phần chính:
+ Phần lễ: Thể hiện sự kính bái, ngưỡng mộ đối tượng thờ phụng, tưởng nhớ công ơn, cầu mong sự may mắn. Chủ tế trong phần lễ thường là Thầy Mo có uy tín hoặc một vị quan Lang trong vùng.
+ Phần hội: Tổ chức các trò chơi dân gian để mọi người thi tài, vui chơi thoải mái trong sự bình đẳng giữa các thành viên cộng đồng.
Lễ hội Đâm đuống hay chàm đuống của dân tộc Mường. Theo tiếng Mường “Đuống” là máng gõ để giã lúa và “Chàm” là đâm, thực chất là hình thức giã gạo nhưng giã gạo trong lễ hội, có tính chất tổ chức và nghệ thuật hơn. Lễ hội Đâm đuống thường được người Mường tổ chức vào dịp Tết, hội mùa, cưới xin và dựng nhà. Nó được hình thành từ cuộc sống lao động của cư dân nông nghiệp vùng trung du, từ công việc giã gạo bằng cối và chày gỗ của phụ nữ. Đến nay, Đâm đuống không chỉ có ý nghĩa là một hình thái lao động mà tồn tại như một tục lệ cổ truyền, ẩn chứa ý nghĩa tâm linh. Người Mường tin rằng tiếng đuống càng vang, càng rộn ràng bao nhiêu thì năm đó sẽ mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mọi điều may mắn sẽ đến nhiều bấy nhiêu.
Mở đầu phần lễ là dàn cồng chiêng được gióng lên, sau đó cô gái Mường bê mâm lễ gồm: gà luộc, xôi, rượu… đi trước, tiếp theo là ông mo, cuối cùng là đoàn nhạc lễ và dàn chiêng đi một vòng quanh sân lễ. Ông mo ngồi cúng lạy trước mâm lễ, khấn trời phật; thần linh, thổ công, thổ địa… cầu sức khỏe, mùa màng bội thu. Tiếp theo, ông mo thực hiện nghi lễ cầu khấn mát nhà bằng việc vẩy nước xung quanh không gian làm lễ. Sau phần lễ, âm thanh của các nhạc cụ truyền thống vang lên và nghi thức Đâm đuống bắt đầu. Chủ trì là người phụ nữ nhiều tuổi nhất trong nhà đứng đầu cối, giã ba tiếng mở màn. Thành ba tiếng “Kênh, kenh, kinh”, làm sao giã thành ba âm thanh trên là một đặc điểm của nghệ thuật. Chày của người khai mạc như thế gọi là “chày cái”. Sau đó đến con gái và cháu gái giã trong nhà, gọi là “chày con” và “chày cháu”. Nhịp điệu phải giữ đúng, cùng hòa âm nhịp nhàng với hàng trăm chày khác. Chiếc đuống hình chiếc thuyền độc mộc đã được đặt sẵn giữa sân lễ từ trước như được đánh thức bằng âm thanh gõ nhịp nhàng từ những chiếc chày gỗ dài. Theo nhịp tay Đâm đuống mau hay chậm, âm thanh cũng chuyển điệu sang những tiết tấu khác nhau, có nhịp 2 xen nhịp 3… Lúc tiếng chày vang lên theo nhịp điệu nhất định, âm thanh của các nhạc cụ truyền thống khác cũng vang lên phụ họa, tạo thành bản nhạc vui tươi, khỏe khoắn, rộn ràng, mở đầu cho một năm mới an lành, ăn nên làm ra, ấm êm, hạnh phúc.
Lễ hội Đâm đuống là một tập tục đẹp, thể hiện sự trân trọng đối với thành quả lao động của con người trong sản xuất nông nghiệp và sự đoàn kết giữa mọi người trong bản làng, cùng với các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào Mường luôn được bảo tồn và phát huy giá trị.
Nguyễn Ngọc Vân