Huyện Thuận Châu (Mường Muổi) là một huyện miền núi thuộc tỉnh Sơn La một mảnh đất hình thành từ rất sớm. Các nhà khảo cổ đã phát hiện khai quật các di chỉ khảo cổ thuộc loại hình di chỉ thềm sông, hang động, mái đá như: Mái đá Bản Mòn ( xã Thôm Mòn, Thuận Châu); Đán Lón, Gò Nàng Ủa ( xã Chiềng Sại) cho ta thấy được những đặc điểm cư trú của người Việt cổ có niên đại cách đây khoảng 3 vạn năm thời đồ đá cũ đến những năm đầu thời đại văn minh. Những phát hiện này đã chứng minh vùng đất Thuận Châu là quê hương của một nhóm cư dân cổ. Đồng thời khẳng định con người ở Sơn La đã có sự phát triển liên tục từ thời đại nguyên thủy cách ngày nay hàng vạn năm đến những ngày đầu của thời đại văn minh, mở ra một hướng đi mới trong nghiên cứu khảo cổ và đưa Sơn La vào bản đồ cư trú của người Việt cổ thời nguyên thủy.
Mái đá Bản Mòn là một di chỉ khảo cổ học được phát hiện sớm nhất của khu vực Tây Bắc. Qua khảo sát và thu thập hiện vật thì đây là một địa điểm đã có cư dân cổ cư trú cách ngày nay khoảng 3.000 năm. Không những thế, đây còn là một công xưởng chế tác công cụ lao động và đồ trang sức. Ngoài ra, di tích có địa hình thuận lợi, cảnh quan môi trường sạch đẹp gắn với văn hoá dân tộc truyền thống, thuận lợi cho khách tham quan.
Văn hóa thời tiền sơ sử luôn là một đề tài hấp dẫn các nhà khoa học trên thế giới để truy tìm dấu vết của cư dân cổ. Với niềm đam mê khảo cổ, nữ học giả người Pháp M.Conali đã tìm đến những hang động, mái đá ở bản Mòn (nay thuộc xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La) để khảo sát vào tháng 5/1927. Tại đây, nhà khoa học người Pháp đã phát hiện rất nhiều vết tích của con người. Tháng 10/ 2004, Bảo tàng Sơn La cũng đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam khai quật một số điểm tại di chỉ này và đã phát hiện nhiều hiện vật của cư dân thời tiền sử.
Mái đá bản Mòn nằm cách thị trấn Thuận Châu khoảng 3 km. Trong 6 mái đá được khai quật thì có 2 mái đá có dấu vết cư trú của con người:
Mái đá phía Tây: Trên mặt nền của mái đá có lớp vỏ ốc tạo thành tầng dày 30 cm chủ yếu là ốc nước ngọt Melania. Vết tích tiền sử ở đây gồm: 01 chày nghiền bằng cuội, 02 viên đá có vết ghè đẽo, 01 chiếc rìu mài bị vỡ, 01 đục đá nhỏ mài, 01 dùi xương nhỏ mài, một vài mảnh tước có dấu cưa và một số mảnh gốm cổ.
Mái đá phía Đông: Tầng văn hóa ở mái đá này còn tương đối nguyên vẹn. Trầm tích khảo cổ dày vài chục cm, có chỗ sâu tới 1,5 m. Trong tầng văn hóa phát hiện thấy 01 rìu đồng, những chiếc đục mài, những đồ trang sức nhỏ, những mảnh vòng khoan tách lõi và rất nhiều gốm thô; đặc biệt những phác vật và mảnh tước đều được làm từ đá xanh lấy từ núi phía Bắc bản Mòn. Ngoài ra, ở mái đá còn tìm thấy rìu có chuôi tra cán, rìu mài toàn thân chế tạo tinh xảo, đục tứ giác mài toàn thân lưỡi vát một mặt; đặc biệt là di cốt người chôn không sâu lắm, các xương đều vỡ vụn…
Toàn cảnh Mái đá phía Đông
Theo đánh giá của bà M.Colani và các nhà khảo cổ học Việt Nam thì di chỉ Mái đá Bản Mòn là một di chỉ xưởng chế tác công cụ lao động và đồ trang sức có niên đại hậu kỳ đá mới, cách ngày nay khoảng 4 ngàn năm.
Trong di tích này, rìu tứ giác, đục hình thang chiếm số lượng nhiều hơn rìu có vai. Những chiếc rìu được làm từ đá phún xuất màu xanh xám được khai thác tại chỗ. Rìu, bôn ở Mái đá bản Mòn có đặc điểm đốc hơi thu nhỏ, lưỡi cong lồi, mặt cắt ngang hình thấu kính hai cạnh thẳng. Điều đó cho thấy mái đá bản Mòn là một di chỉ xưởng chế tác rìu, bôn tứ giác. Công xưởng chế tác này giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp công cụ lao động đá cho nhóm cư dân trong vùng thông qua việc trao đổi.
Hình ảnh hiện vật tại di chỉ Mái đá Bản Mòn được trưng bày tại phòng trưng bày Sơn La thời kỳ Tiền – Sơ sử, Bảo tàng tỉnh Sơn La
Ngoài chế tác các công cụ lao động, Mái đá bản Mòn còn là nơi chế tác đồ trang sức. Đó là những chuỗi hạt gần hình trụ khoan lỗ từ hai đầu, một vòng tay bằng đá phiến màu xám và một mảnh vòng tay có mặt cắt ngang hình nửa ô van. Phần lớn các phác vật tìm thấy đều ở dạng chế tác dang dở hoặc các phế loại do bị vỡ. Đồ xương tìm thấy ở mái đá bản Mòn gồm 01 dùi với vết mài cẩn thận ở một đầu, một nạo nhỏ và mảnh dao xương với vết chế tác của con người.
Đồ gốm thu được thuộc loại gốm thô pha cát; xương gốm gồm những vảy mica nhỏ xíu, một lượng ít những mảnh cát vàng, mặt ngoài mảnh gốm đôi khi cũng gặp những vảy cát như vậy. Hoa văn được trang trí là văn thừng trải, văn thừng đập, văn thừng lăn. Hiện vật đồng thu được ở di chỉ gồm: Rìu đồng có họng tra cán, trang trí hai đường gờ nổi song song nằm ngang gần giữa thân; gần họng có thêm một đường gờ nổi và một chốt hãm nhỏ.
Di chỉ bản Mòn không những có giá trị về văn hoá tiền sử mà còn có ý nghĩa lịch sử trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Sau khi chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi, quân và dân ta đã tập trung sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Để đảm bảo nguồn lương thực và thực phẩm phục vụ cho bộ đội, tại di chỉ bản Mòn này (ở mái đá phía Đông) đã được chọn làm nơi tập kết lương thực, thực phẩm phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ 1953 - 1954.Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ 1965 - 1968, đây là nơi sơ tán để đảm bảo an toàn và bí mật của các cơ quan của huyện Thuận Châu.
Đứng từ xa nhìn vào núi đá, di tích trông giống tựa như một con đại bàng khổng lồ đang đậu trên núi, đầu quay về hướng Bắc, vai phải quay về hướng Đông, vai trái quay về hướng Tây tựa như đang giữ một báu vật linh thiêng. Dưới chân núi đá này là cả một hệ thống di chỉ của người tiền sử. Địa hình ở đây khá bằng phẳng, trước mặt là một cánh đồng rộng lớn và dòng suối Muội.
Truyền thuyết kể lại rằng: Từ xa xưa, vào một ngày đẹp trời giữa tháng 3, có một con gà bằng vàng bay từ phương Bắc về phương Nam, khi qua khu vực bản Mòn thấy ở đây có cảnh đẹp, địa hình bằng phẳng, có dòng suối Muội hiền hoà chảy qua, ở giữa có một quả núi lớn cây cối xanh tốt, đứng ở đây có thể quan sát được tất cả mọi phía, gà vàng liền hạ cánh xuống đỉnh núi và có ý định trú ngụ lại đây.
Ở bản làng gần đó, có một chàng trai nhà rất nghèo. Hàng ngày, chàng phải vào rừng đốn củi, đem về đổi lấy gạo để nuôi mẹ già. Hôm đó, khi đang đốn củi, chàng trai thấy có tiếng vỗ cánh lạ, khác với tiếng vỗ cánh của chim rừng. Chàng trai ngẩng mặt lên thì thấy trên đỉnh núi có một vầng sáng rực, chàng trai bèn leo lên đỉnh núi thì nhìn thấy một con gà bằng vàng đang đậu ở đó. Thấy động, con gà liền bay xuống chân núi và chui vào một chiếc hang nhỏ. Chàng trai liền theo xuống và đào, bới mong bắt được gà vàng. Nhưng vì hang quá sâu, lại một mình chàng trai không đào được, chàng liền chạy về bản gọi dân bản đến cùng đào để bắt gà vàng. Dân bản ngày qua ngày đào quanh chân núi cho tới một hôm họ cũng đào được tới chỗ cửa hang, nơi con gà vàng chui vào nhưng tiếc thay cửa hang đã bị lấp kín không thể đào được nữa. Dân bản vừa tiếc công sức mình bỏ ra, vừa tiếc không bắt được gà vàng và vẫn mong một ngày nào đó sẽ lại thấy gà vàng, cho nên đã đặt ngọn núi là Mon nghĩa là trông mong mòn mỏi và từ đó bản có hang này cũng được đặt tên là bản Mòn. Dấu vết đào gà vàng của dân bản xưa đã trở thành những mái đá rộng, mà các nhà khảo cổ học cho rằng đó nơi cư trú của cư dân thời tiền sử.
Chân núi bản Mòn được tạo thành bởi 6 mái đá chạy xung quanh tạo thành thế tương đối liên hoàn. Mái đá phía Bắc được tạo gần như một cái hang. Trước cửa hang có 2 cột nhũ đá to mọc ở giữa đứng từ trong hang nhìn ra ta tưởng tượng như đây là miệng của con rồng khổng lồ. Trên trần hang các nhũ đá đủ mọi hình thù kỳ thú: hình chú cầy bay đang treo chân vào trần hang xoè hai cánh như đang chuẩn bị bắt mồi, hình nhũ đá như con thạch sùng to lớn đang há miệng bắt mồi, hình bông hoa, cái cây đang treo lơ lửng trên cành, những cánh chim đang rập rờn dưới những đám mây, những cột đá đủ mọi hình thù được thả từ trên trần xuống nền.
Đến với di chỉ mái đá bản Mòn, du khách không những được tham quan, hiểu biết thêm về lịch sử phát triển của loài người mà còn được ngắm cảnh đẹp của mái đá, mái nhà của người Việt cổ. Xung quanh di tích hiện nay là những khu vườn trồng cây thoáng mát, sạch sẽ, là nơi nghỉ chân cho du khách khi tham quan di tích. Bản Mòn là bản của đồng bào Thái với văn hoá truyền thống đặc sắc còn được bảo lưu đậm nét, những nghề thủ công truyền thống với sản phẩm phong phú. Du khách tới đây được hoà mình vào điệu xoè truyền thống và ngất ngây trong hương rượu cần, là nơi tìm hiểu về văn hoá tộc người.
Di tích được UBND tỉnh Sơn La công nhận xếp hạng Ngày 28/4/2006.
Cầm Thị May, Phòng Giáo dục – Truyền thông